Art Deco - Di sản của thiết kế thế kỷ XX
Bản thân art deco đã là một thứ văn hoá đại chúng. Người ta ngắm nó, sống trong nó, xem nó từ những cuốn phim, trưng bày nó trong nhà, và tưởng nhớ về nó mỗi lần cần một đòn bẩy sáng tạo trong thời thế có quá nhiều biến thiên.
“Tôi nhìn những con phố - những ánh đèn chói lóa, những tòa nhà cao tầng - và chính ở đó tôi đã hình dung ra Metropolis,” Fritz Lang đang nói đến những con phố New York, căn nguyên của cách ông tái dựng sức sống đô thị trong bộ phim nổi tiếng nhất của mình - Metropolis (1927). Lấy bối cảnh ở tương lai phản địa đàng trong năm 2000, cuốn phim câm của đạo diễn người Đức đưa người xem đến quang cảnh đường phố tương lai dựa trên chính hình mẫu bên kia bờ đại dương.
Một mô phỏng tráng lệ có thực của những tòa nhà chọc trời làm bằng đá nhẵn, đường chân trời rực rỡ, một nàng rô bốt vô cảm, hay nội thất góc cạnh trong dáng vẻ sang trọng mà chẳng cần đến màu sắc để người xem có thể nhận ra… Tất cả những năng lượng của thành phố trong tưởng tượng táo bạo của Fritz Lang, đến phần lớn từ phong trào Art Deco.
Bối cảnh phim Metropolis của đạo diễn Fritz Lang
Những gì Thập kỷ gào thét để lại
Ở thời điểm những năm 1920 (Thập kỷ gào thét), Art Deco là đại diện thâu tóm của chủ nghĩa vị lai, khi bản thân nó sinh ra từ sự xuất hiện của bê tông hay cốt thép. Lần về sâu xa hơn, ngay cả trước khi phong trào này có một cái tên, những nghệ sĩ trang trí đã làm ra những sản phẩm họ tự gọi là “Arts Decoatifs” - Nghệ thuật trang trí. Thuật ngữ này chính thức được phát minh, nhưng chỉ nhắm đến việc tiếp cho những nghệ sĩ trang trí này một danh xưng xứng tầm như họa sĩ hay nhà điêu khắc cùng thời. Rằng, những sản phẩm thiết kế của họ cũng là nghệ thuật, và bản thân họ cũng giàu sức sáng tạo và ý chí cách mạng hoá nghệ thuật như bất cứ nghệ sĩ truyền thống nào.
Những chiếc ghế bàn, thảm hay đèn trang trí của Maurice Dufrêne, Émile-Jacques Ruhlmann, Paul Poiret, Francis Jourdain, hay tấm áp phích “Lady with Panther” mà George Barbier vẽ cho cửa hàng Cartier vào năm 1914, di sản của Art Deco ra đời ngay cả trước khi nó chính thức trở thành khái niệm. Người ta có lẽ phải cảm ơn Paris, bởi sự trỗi dậy của các nhà thiết kế thời trang xứ này cùng các cửa hàng đồng nghĩa với việc nghệ sĩ trang trí chẳng thiếu việc để làm. Sức sáng tạo của họ căng lên như diều gặp gió ở thời điểm châu Âu vừa trải qua Thế chiến thứ Nhất với những hoan hỉ, phấn khích và tự do thời thế tạo ra.
“Roses at Night - Evening Dress” của hoạ sĩ George Barbier (1921)
Châu Âu và Mỹ rùng mình trong cuộc biến chuyển đồng biến chuyển đồng thời của văn hóa, xã hội và kinh tế. Người tiêu dùng hưởng thụ sự thịnh vượng quá trình này mang lại để đòi hỏi cái đẹp và sự xa xỉ độc đáo trong món đồ họ trưng diện trên người và trang trí trong nhà. “Cơn say chung” bấy giờ là một nhu cầu thoát ly, giải phóng khỏi những u tối thảm thương của chiến tranh, để tìm đến (hoặc nếu không có thì kiến tạo) một thế giới mới: Bóng bẩy, xa hoa, lạc quan hơn. Thế giới ấy cho phép con người tận hưởng cuộc sống, điều khiển máy móc và cách tân chúng cho những tiến bộ đại chúng.
Nội thất trang trí phong cách Art Deco
Đại diện của sự xa hoa
Những năm 1920 đầy sôi động, thời của Gatsby vĩ đại, thời của những rạp chiếu bóng không lời, và những bộ váy ngắn không tay cách tân do Coco Chanel thiết kế. Hoài niệm về thập niên 20 của thế kỷ trước là nghĩ về Hemingway và Fitzgerald gặp gỡ tiệc tùng với cánh nghệ sĩ giữa lòng Paris. Một cô nàng của thập niên 1920? Có lẽ cô sẽ mặc chiếc váy xanh lá đầy những mặt phẳng gãy.
Cô sẽ ngồi trong chiếc xe hơi Ford, khuôn mặt sắc nét của cô nổi bật giữa đối lập sáng tối. Cô gái trong bức tranh Tamara in a Green Bugatti của họa sĩ gốc Ba Lan Tamara de Lempicka là hiện thân cho những gợi cảm, táo bạo nhưng cũng đầy tao nhã của những năm 1920, và cũng là một trong những biểu tượng toả sáng nhất của hội họa Art Deco.
Autoportrait (Tamara in a Green Bugatti) - bức chân dung tự hoạ tại Paris (1928) của nghệ sĩ người Ba Lan Tamara de Lempicka
Ra đời trong âm thanh jazz, giữa những đại lộ xa hoa, và ngụp lặn trong các bữa tiệc bất tận như chẳng còn ngày mai, Art Deco không phủ nhận hay chối bỏ hoàn toàn thành tựu nghệ thuật của truyền nhân. Khi sự trao đổi văn hoá toàn cầu bắt đầu nhen nhóm ở đầu thế kỷ XX, những nét đẹp bản địa của nghệ thuật Ai Cập cổ đại, châu Phi, châu Á, cộng hưởng với tinh tuý của phong trào nghệ thuật hiện đại như Chủ nghĩa lập thể, Chủ nghĩa vị lai, Chủ nghĩa kiến tạo, phong trào de Stijl hay nguyên tắc Bauhaus, rồi lược giản đến sự chiết trung sắc nét, tinh xảo cầu kỳ trong hoạ tiết. Art Deco không khiến người xem phải lăn tăn đoán nghĩa, nhưng phần nhiều sẽ khiến thị giác choáng ngợp.
Thành quả là một Art Deco vừa vị lai vừa cũng nuôi dưỡng nét hoài cổ. Không lạ lùng khi Art Deco chỉ vừa nhen nhóm được gọi tên đã ngay lập tức len lỏi vào quang phổ nghệ thuật thị giác. Những đặc trưng về tính đối xứng, hình khối và tiết chế được tìm thấy trong kiến trúc, điêu khắc, hội họa, thiết kế đồ họa và cả phim ảnh. Xa hoa nhưng không ồn ào, Art Deco mang đến một diễn tả thẩm mỹ mới về cái đẹp. Nó gắn với tất cả những gì bóng bẩy nhất, kiêu kì nhất của thập niên 1920 đến độ người ta không thể tái hiện giai đoạn này mà thiếu vắng bóng dáng những tác phẩm Art Deco.
Tác phẩm điêu khắc “Victoire” - René Lalique
Vẻ đẹp vượt thời gian
Dù xuất phát điểm và nổi lên ở Paris sau Triển lãm thiết kế quốc tế “Modern decorative and Industrial Arts” vào năm 1925, và tiếp tục lan rộng đến những thành phố châu Âu khác như Brussel, Vienna hay Bucharest, nhưng Art Deco lại chạm đến đỉnh huy hoàng ở Mỹ. Cụ thể là ở New York, nơi đã khiến Fritz Lang phải choáng váng và phải sáng tạo. Khi ấy, New York là hình ảnh của tương lai, những công trình của New York được xây trong một mặc định chúng sẽ trường tồn bất biến giữa bánh xe thời gian.
Và đúng như vậy, nước Mỹ trong cuộc chạy đua vươn cao với các tòa nhà chọc trời vào thập niên 1930 bấu víu vào Art Deco như một thánh kinh kiến trúc. Những toà nhà như Chrysler (KTS William Van Alen), 30 Rockefeller Plaza (KTS Raymond Hood) hay thậm chí toà nhà biểu tượng của một New York hoa lệ - Empire State Building (Thiết kế bởi Shreve, Lamb & Harmon), vv, với phiên bản Art Deco hiện đại bóng bẩy và lặp lại hoạ tiết zigzag hay mặt trời; so với sự cầu kỳ độc bản của Art Deco châu Âu. Không chỉ cao nhất, dễ nhận biết nhất, những tác phẩm kiến trúc này như chiếc vương miện lấp lánh của Art Deco.
Tác phẩm điêu khắc trên lối vào toà nhà chính của trung tâm 30 Rockefeller Plaza - là một biểu tượng của Art Deco. Được tạo ra bởi Lee Lawrie, một trong những nhà điêu khắc kiến trúc hàng đầu của Mỹ
Bên cạnh bức điêu khắc của Demétre Chiparus, những poster của Charles Gesmar, bìa tạp chí Vanity Fair của Georges Lepape, chiếc váy vải xếp nếp của nhà thiết kế Paul Poiret hay chiếc quần thuỷ thủ và áo cánh của Coco Chanel… những tòa nhà Art Deco nước Mỹ là một lý giải ồn ào cho sự hưng thịnh và tầm ảnh hưởng sâu sắc của Art Deco với nền nghệ thuật thế giới. Không chỉ dừng lại ở những tác phẩm vật lý, Art Deco là một cách suy nghĩ, là một thứ ngôn ngữ hiện sinh đề cao cái tôi nhưng là một cái tôi biết mình là ai và muốn thể hiện điều gì với thế giới. Cái tôi ấy phảng phất qua những cô gái cắt tóc ngắn vào thập niên 1920 để phản đối những khắt khe quá đà và cách biệt giữa đàn ông với phụ nữ, giữa sự xa hoa với tính cầu kỳ e lệ.
Hoạ tiết Art Deco trên đỉnh toà nhà Chrysler
Thời kỳ Đại suy thoái rồi đến Thế chiến II, Art Deco như một nghệ sĩ lỗi lạc không gặp thời, khi bị lịch sử bận rộn với rối ren thời thế mà nhẹ nhàng chối bỏ. Nhưng đây lại là một trong những phong trào nghệ thuật thế kỷ XX để lại ảnh hưởng sâu sắc nhất. Trong khi thập niên 1960 chứng kiến Art Deco trỗi dậy âm thầm trong những tác phẩm Pop Art với màu sắc sống động và hoạ tiết hình học góc cạnh; những năm 1980 say mê sự sang trọng và xa hoa cũng tìm về Art Deco cho những thiết kế nội thất góc cạnh và thẩm mỹ hiện đại.
Metropolis của Fritz Lang có thể đã lỗi thời, nhưng Hollywood vẫn miệt mài sản xuất những bộ phim để tái hiện cả bóng hình và tư tưởng của Art Deco. Từ The Great Gatsby của Baz Luhrmann cho đến Babylon của Damien Chazelle, người xem thấy những căn phòng quá khổ có thảm họa tiết hình học, tranh vẽ, đồ bọc, đèn chùm khổng lồ và những đường cong khí động học tinh tế tượng trưng cho xa xỉ và thanh lịch. Nếu người xem cũng như Fritz Lang, có lẽ điều họ sẽ làm sau đó là… sáng tạo.
>> Xem thêm: Những bộ phim độc lập không thể bỏ lỡ (Phần 2)