share-arrow show-more-arrow watch101-hotspot instagram nav dropdown-arrow full-article-view read-more-arrow close email facebook w image-centric-view newletter-icon pinterest search thumbnail-view twitter view-image wondersauce
TEXT VIEW Article views bubble
IMAGE VIEW Article views bubble

The Art Corner Nghe tác giả Việt Nam "kể chuyện" về những vùng đất Việt


ADVERTISEMENT

Mỗi vùng đất ở Việt Nam mang trong mình không chỉ nét văn hoá đặc trưng, mà còn cả nguồn cảm hứng dồi dào và chất liệu sáng tác tuyệt vời cho những cuốn sách. Ba tựa sách dưới đây đưa người đọc khám phá ba vùng miền của Việt Nam. Từ cao nguyên đá Hà Giang xa xôi đến một Đà Lạt hoài niệm. 

"Đà Lạt, một thời hương xa" 

Lịch sử Đà Lạt bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 khi nhà thám hiểm Yersin phát hiện ra vùng đất cao nguyên trù phú và khí hậu thuận lợi vô cùng này. Ngay sau đó, từ những năm đầu thế kỷ 20, người Pháp đã xây dựng Đà Lạt như một trạm nghỉ dưỡng, sau những lần quy hoạch để dần xây dựng lên một “đô thị” Đà Lạt kiểu mẫu như ngày hôm nay. Gắn bó với những biến động của lịch sử đất nước, lịch sử và văn hóa Đà Lạt dường như vì thế mà hình thành nên những vẻ đẹp rất riêng, được xây dựng và phát triển từ chính những ‘cư dân’ đến với Đà Lạt trong suốt hơn 100 năm hình thành. Được giới thiệu như một cuốn khảo cứu, cuốn sách “ Đà Lạt, một thời hương xa” là thành quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên về vùng đất nơi anh từng sinh sống và làm việc trong một khoảng thời gian dài. Dựa trên chính những kinh nghiệm, quan sát của mình, cùng với thái độ trân trọng nâng niu ngay từ những giá trị văn hóa tuy nhỏ bé nhưng không đâu có như ở Đà Lạt, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã đưa độc giả vào một chuyến “Du hành thời gian” nơi tác giả không chỉ là người kể chuyện mà còn là người tái hiện một không gian Đà Lạt thơ mộng và đẹp đến nao lòng. 

Cuốn sách được chia thành hai chương chính : Chương một - “ Du hành thời gian” là những câu chuyện kể về một vùng đất được mệnh danh “Paris ở Đông Dương” với những tòa biệt thự vùng quê nước Pháp, những quán café tồn tại ngót hơn nửa thế kỷ và sự gắn bó với Đà Lạt của những tên tuổi lớn trong văn nghệ, chính trị một thời như Trịnh Công Sơn, Nhất Linh, Đinh Cường, Phạm Duy, vv. Những di sản này vẫn đâu đó sống mãi những dấu ấn ở miền đất Đà Lạt, vì thế, người đọc dường như tìm thấy một sự kết nối xúc động với những nhân vật, sự kiện được Nguyễn Vĩnh Nguyên nhắc đến. 

Chương hai - “ Không gian đã mất” lại mang mác một nỗi tiếc nuối cho những giá trị của Đà Lạt một thời giờ đây chỉ còn trong dĩ vãng và tâm tưởng của mỗi người từng gắn bó sâu sắc với Đà Lạt. Được mệnh danh là ‘thành phố của trí thức” bậc nhất xứ Đông Dương lúc bấy giờ, Đà Lạt không chỉ có nhiều trường đại học mang chuẩn quốc tế với những kho sách đồ sộ, thậm chí là nơi lưu giữ rất nhiều cuốn sách hay tư liệu, mộc bản hay châu bản của Hoàng Triều Huế. Hoạt động sinh viên Việt Nam những năm 1960 của thế kỷ trước hay những chuyện kể về chiếc xe hơi “La Dalat “ huyền thoại lấy cảm hứng từ chính vùng đất này cũng được Nguyễn Vĩnh Nguyên khảo cứu đầy sinh động với những tư liệu lịch sử, câu chuyện kể từ những chứng nhân của cả một thế hệ. 

Đi tìm lời giải đáp cho những hình ảnh văn hóa của Đà Lạt, độc giả dường như có trong mình những phút giây trầm trồ với lịch sử hình thành đầy những chi tiết ngoài lề thú vị, như quán café Tùng là nơi họp mặt của những tên tuổi lớn trong làng nghệ thuật Việt Nam hay nguồn gốc ra đời của rất nhiều tác phẩm, ca khúc được lấy cảm hứng từ một thành phố Đà Lạt mộng mơ, lúc u buồn tư lự, khi lại phóng khoáng vui tươi. Mang tính chất của một cuốn khảo cứu độc lập, “Đà Lạt, một thời hương xa” còn là bộ sưu tập đồ sộ những bức thư, những ghi chép hồi kí, những bức vẽ, bức ảnh hay bản nhạc, bài thơ viết tay được tác giả sưu tầm trong 3 năm từ chính bộ sưu tập cá nhân của chính những nhân vật được nhắc đến trong cả cuốn sách. Cuốn sách vì thế mang vẻ sinh động như một cuốn phim tư liệu, vừa tái hiện một cách chân thực một giai đoạn biến động của Đà Lạt mà ở trong đó, mỗi một cá thể lại lưu giữ cho riêng mình những kí ức riêng, những hoài niệm khó phai nhòa riêng. 

Dù là một cuốn khảo cứu, song với văn phong bay bổng và gần gũi như kể chuyện, những nhân vật, sự kiện văn hóa trong cuốn sách được nhà văn, nhà báo Nguyễn Vĩnh Nguyên phục dựng và diễn giải trong gần 400 trang sách mang lại cho bạn đọc những giây phút đắm chìm trong một bầu không khí của văn hóa, của trí thức, của lịch sử dân tộc và của những vui buồn trong đời người gắn liền với rừng thông, con dốc của Đà Lạt. Tác giả từng chia sẻ rằng, tình yêu của anh đối với Đà Lạt là “tình yêu của thời mới hẹn hò”, với cuốn du khảo này, Nguyễn Vĩnh Nguyên không chỉ cung cấp những tư liệu có giá trị về văn hóa Đà Lạt trong giai đoạn 1954-1975, mà còn chia sẻ sâu sắc tình yêu ấy của anh với độc giả. Những người đã, đang, và sẽ yêu Đà Lạt, dù cho họ có là lữ khách hay không. 

"Đừng hôn ở Hội An" 

Dù vẫn mang trong mình những vẻ đẹp đến xao xuyến của quá khứ, ít ai tưởng tượng được về một Hội An trong nếp sinh hoạt thường nhật của những người con phố Hội những năm cuối thế kỷ 20. Tuyển tập truyện ngắn và tạp bút dày chưa đến 200 trang của tác giả Đông Lê Vũ chính là một chuyến du hành về một thời tưởng gần mà xa như vậy. 

Đọc 38 truyện ngắn và tản văn của Đinh Lê Vũ, cũng giống như bước theo những bước chân nhà văn dọc bờ sông Hoài trong một buổi sáng tinh mơ, băng qua một con phố nhỏ ngày nước lụt, trong một đêm Trung Thu huyền diệu của phố Hội, trong những chuyến dã ngoại cùng bạn bè ở khu Cẩm Nam, Cẩm Thanh… Những mảng màu đan xen của một Hội An chân phương, yên bình cứ thế theo từng trang sách hiện lên đầy sống động. Nét mộc mạc ấy bắt nguồn từ chính cách kể chuyện nhẹ nhàng, thủ thỉ, nhiều khi gợi cho người đọc cảm giác đọc những trang nhật ký cá nhân của một người đàn ông trưởng thành chia sẻ những nỗi nhớ và hoài niệm với quê hương, với mảnh đất nơi anh sinh ra và lớn lên. Nơi mà trái tim anh hoàn toàn thuộc về. 

Hội An đối với anh, là nơi dường như tất cả đã diễn ra. Ở đó có những mối tình đầu vừa ngọt ngào vừa đầy luyến tiếc. Có những cuộc gặp gỡ và chia ly giữa những người con Hội An, để dù có đi đến đâu dường như vẫn đau đáu nỗi nhớ thị xã bé nhỏ nằm dọc con sông Thu Bồn ấy. Ở đó còn có những quán café một thời chỉ thuộc về riêng những cư dân Hội An, nơi mà chủ quán sẽ luôn bật những đĩa nhạc của Khánh Ly hát nhạc Trịnh từ những năm cũ. Ở đó, có nếp nhà của anh trong những trận lụt phải sơ tán đồ đạc. Dù là truyện ngắn hay tản văn, độc giả cũng sẽ dễ dàng bắt gặp đâu đó hình ảnh của một phố Hội vẫn còn lưu dấu lại đâu đây trong nhịp sống hiện đại, nhưng cùng với đó, là cảm giác khám phá một Hội An thuần Hội An nhất. Ai đó đã từng nói rằng, để hiểu về một vùng đất, hãy trò chuyện với những người dân địa phương. Cuốn sách cũng như một cuộc trò chuyện với Đinh Lê Vũ, để dù bạn có đi lạc khi lang thang trong lòng phố Hội, cũng có cảm giác những câu chuyện của anh như đang dẫn đường, hay thủ thỉ những câu chuyện nho nhỏ gắn với ký ức và hiểu biết tường tận của anh. 

Nhà văn Nguyễn Đông Thức, khi giới thiệu cuốn “Đừng hôn ở Hội An”, đã nhận xét Đinh Lê Vũ ‘đúng là một người Hội An chính hiệu’. Vì sao ư? Hãy thử đọc Đinh Lê Vũ viết về ẩm thực Hội An mà xem, những bánh nổ, bánh in, hay bánh thuẫn chỉ đổ bằng trứng gà, bột mì và đường thôi, mà qua bàn tay bà ngoại trở thành ‘món ngon nhất’ đối với anh. Mỗi món ăn là một kỷ niệm anh chọn cách không thể lãng quên, như món trưởi làm từ thịt heo đầu đã luộc- đặc sản ngày tết và là nỗi thèm thuồng của trẻ nhỏ Hội An một thời. Và, có lẽ chỉ có người Hội An chính hiệu mới có món “ bánh tráng nhúng nước cuốn với rau sống Trà Quế mẹ mua từ chiều ba mươi Tết để dành sẵn” (‘Những ngày mồng một của thời thơ ấu’). Qua đời sống ẩm thực, để kể nên tình yêu thương tha thiết của anh với bà với mẹ. Những giá trị sâu sắc của một gia đình truyền thống ở Hội An dường như chính là cốt lõi trong văn hóa của thương cảng nổi tiếng một thời ở dải đất miền Trung này. 

"Lặng yên dưới vực sâu" 

Vùng đất cao nguyên xa xôi, hoang vu mà tráng lệ, nơi mỗi mảnh đời là một câu chuyện để kể và để lắng nghe, và nhà văn Đỗ Bích Thúy là một người kể chuyện như vậy. Có rất nhiều những câu chuyện đan xen, mà ở đó mỗi mảnh đời lại như khúc hát của rừng núi, lúc hoang dại chót vót, lúc trầm đục réo rắt. Nhà văn Đỗ Bích Thúy ngay từ tập truyện ngắn “Tiếng đàn môi sau bờ rài đá” đã khẳng định thiên hướng suy cảm của mình với số phận người phụ nữ miền núi, những tình yêu bị ngăn cấm, những tình nghĩa chồng vợ thủy chung nhưng cũng ẩn chứa nhiều bi kịch. Tất cả những khắc khoải và suy tư của nhà văn tập trung cả ở tác phẩm dài chưa đến hai trăm trang này. Đọc “Lặng yên dưới vực sâu”, chính người đọc cũng lặng lẽ chìm trong những xung đột đan xen với nội tâm nhân vật, nơi không có ai là người tốt, kẻ xấu, chỉ có những trái tim khao khát yêu thương đến tận cùng, gai góc mãnh liệt đến tận cùng, nhưng cũng yếu mềm, hoang sơ đến tận cùng. Có lẽ, chưa có nhà văn nào khắc họa được những bức chân dung của một dân tộc rực rỡ và chân phương như Đỗ Bích Thúy. 


Điển hình của một nhà văn miền núi, ngòi bút Đỗ Bích Thúy là tổng thể hòa hợp mãnh liệt giữa ngôn từ đậm phương ngữ của người Mông, những am hiểu sâu sắc nét văn hóa của dân tộc ấy, và những nữ tính, trân trọng tỏa ra từ chính nội tâm tác giả. Dường như, độc giả tìm đến văn chương của Đỗ Bích Thúy để được khám phá một thế giới cách biệt giữa lòng cao nguyên đá đầy hoang sơ bí ẩn, để rồi càng bước sâu vào thế giới ấy, càng dấy lên trong mình khao khát được tìm hiểu thêm, vì có đi đến tận cùng cũng không khám phá hết không gian bao la và khắc khoải ấy.

Bức tranh vùng cao ẩn hiện sinh động trong từng trang sách, như phả ra hơi lạnh từ những khe núi đá, như những bông tuyết rơi phủ trắng núi đồi trong một mùa đông dài lạnh lẽo, như những bụi sa nhân gốc đầy ốc sên, và, như vực sâu giữa lòng những khe đá dựng đứng như chực chờ nhấn chìm tất cả…. Có phải vì sống giữa bạt ngàn và khắc nghiệt ấy, mà tâm hồn người cũng được bồi đắp sự hoang dại, kiêu hãnh đầy bản năng trong cách nghĩ, cách yêu? 

Phải am hiểu và yêu thương đau đáu mảnh đất cao nguyên hùng vĩ thế nào, để những phong tục, tập quán và những mối quan hệ trong gia đình, giữa người với người trong một xã hội thu nhỏ và độc đáo ấy? Trong một bài phỏng vấn, nhà văn Đỗ Bích Thúy chia sẻ rằng, “ văn hóa cũng là linh hồn của vùng đất,” từ việc xoáy sâu vào những bi kịch từ truyền thống, cho đến những giao tiếp và sinh hoạt đời thường bên đống lửa, bát rượu ngô, phiên chợ núi, nét văn hóa không cần phải được cầu kỳ trưng bày, cũng đã lung linh trong khuôn chữ rồi dội sâu vào lòng người đọc. 


ADVERTISEMENT